CHUỖI GIÁ TRỊ LÚA THƯƠNG PHẪM CHẤT LƯỢNG CAO TỪ CÁNH ĐỒNG LỚN THÂM CANH LÚA ÁP DỤNG CƠ GIỚI HOÁ
31/12/2019 23:11
Huyện Tánh Linh nằm ở phía tây tỉnh Bình Thuận, có diện tích tự nhiên 117.422 ha. Địa hình thấp dần từ Đông sang Tây và từ Bắc vào Nam, được chia thành 4 dạng địa hình chính: núi cao trung bình: đồi núi thấp, đồi thoải lượn sóng: đồng bằng (đồng bằng bậc thềm sông, đồng bằng phù sa). Với diện tích canh tác lúa hơn 11.000 ha, nằm trong lưu vực sông La Ngà, huyện Tánh Linh được xác định là một trong những vùng lúa trọng điểm của tỉnh Bình Thuận. Để nâng cao chất lượng lúa gạo, đồng thời tạo động lực giúp nông dân có bước chuyển biến mạnh mẽ trong việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, những năm 2011 - 2017, huyện Tánh Linh đã thực hiện chương trình sản xuất như: sử dụng giống lúa xác nhận chất lượng cao, xây dựng hợp tác xã hoặc tổ hợp tác sản xuất giống lúa xác nhận tại Đức Phú, Gia An, Lạc Tánh, Bắc Ruộng … Các giống lúa sử dụng chủ yếu là giống thuần chủng có nguồn gốc từ Viện lúa đồng bằng sông Cửu Long như OM 4900, OM 6162, OM5451 hoặc ML202… đáp ứng nhu cầu về giống lúa xác nhận trên địa bàn, từng bước nâng cao chuyên môn hoá vùng sản xuất lúa có chất lượng cao. Để xây dựng được vùng sản xuất lúa thương phẩm chất lượng cao với diện tích 3.000 ha (cánh đồng mẫu lớn), sản phẩm lúa gạo có phẩm cấp chất lượng tại các xã: Đức Bình, Đồng Kho, Huy Khiêm và Bắc Ruộng …, trong mối liên kết “bốn nhà”. Đồng thời, trong quá trình tham gia mô hình sản xuất, nông dân được trang bị kiến thức khoa học kỹ thuật tại các lớp tập huấn về kỹ thuật canh tác: IPM (3 giảm: giảm lượng giống gieo, giảm lượng thuốc trừ sâu bệnh, giảm lượng phân bón vô cơ, 3 tăng: tăng năng suất lúa, tăng chất lượng lúa gạo, tăng hiệu quả kinh tế), sử dụng phân hữu cơ vi sinh, phân chuồng trong sản xuất lúa. Tiếp tục, năm 2017 – 2019, song song với qui hoạch và các giải pháp kỹ thuật đã thực hiện, việc sản xuất lại áp dụng sản xuất thâm canh lúa theo phương pháp canh tác SRI để tiết kiệm nước trong thời kỳ biến đổi khí hậu khô hạn, đưa cơ giới hoá vào sản xuất như: máy làm đất, máy cấy, máy thu hoạch lúa, máy sấy, máy phân loại sản phẩm … để sau thu hoạch, hạt lúa đảm bảo đủ phẩm cấp tiêu chuẩn chất lượng xuất khẩu đáp ứng thị hiếu người tiêu dùng sẽ tiêu thụ ổn định, giá bán có ưu thế cạnh tranh bình quân cao hơn hạt lúa sản xuất truyền thống.
Cánh đồng mẫu lớn tại địa phương chính là liên kết nhiều nông hộ sản xuất trên cánh đồng cùng thực hiện một quy trình canh tác, áp dụng đồng bộ các giải pháp kỹ thuật, trong đó, cơ giới hoá từ khâu làm đất cho tới khâu thu hoạch, phơi sấy, phân loại kích cỡ và máy thu hoạch phế phẩm (máy cuộn rơm, máy ép củi trấu) không thể thiếu. Việc cơ giới hoá làm nông hộ chủ động đúng lịch thời vụ (gieo cấy và thu hoạt đồng loạt), tăng năng suất lao động, tiết kiệm chi phí đầu tư (công làm đất, gieo cấy, chăm sóc phân bón vô cơ thuốc trừ sâu bệnh, hạn chế thất thoát ….), nâng cao năng suất (tăng năng suất và giảm thất thoát sau thu hoạch), có được một khối lượng sản phẩm hàng hoá lớn, chất lượng và đồng đều phẩm cấp. Vì vậy, sản phẩm lúa gạo dễ cạnh tranh giá bán làm tăng hiệu quả kinh tế trên một đơn vị diện tích đất canh tác lúa và chắc chắn rằng môi trường sinh thái trên cánh đồng lớn cải thiện tích cực. Bên cạnh đó, mối liên kết giữa các nông hộ sản xuất cùng nhau được thắt chặt, mối liên kết giữa nông hộ với khuyến nông, nhà khoa học, doanh nghiệp cung ứng vật tư cho sản xuất hoặc thu mua sản phẩm sẽ bền vững hơn. Tạo được một vùng sản xuất hàng hoá ổn định với chuyên môn hoá sâu.
Mô hình cánh đồng lớn thâm canh lúa, áp dụng các giải pháp kỹ thuật và cơ giới hoá đồng bộ trong sản xuất tại các địa điểm: xã Đức Phú, thị trấn Lạc Tánh, xã Bắc Ruộng, xã Đức Bình, xã Huy Khiêm … của huyện Tánh Linh được khuyến nông Bình Thuận thực hiện trong 3 năm (2017 – 2019) cho thấy một số vấn đề sau:
Cánh đồng phì nhiêu hơn do đất canh tác được cải tạo (bón phân hữu cơ, hữu cơ vi sinh, cày phơi ải …)
Làm năng suất lao động tăng lên như: máy cấy tăng từ 10 – 20 lần (tuỳ theo chủng loại: máy cấy cầm tay hay ngồi trên điều khiển), máy làm đất, máy gặt đập, lò sấy, máy phun thuốc bảo vệ thực vật (BVTV)… so với làm thủ công
Chi phí đầu tư cho sản xuất được tiết kiệm: Lượng giống lúa gieo giảm 80% (chỉ 50 kg giống lúa/ha – giảm 200 kg giống lúa/ha), ít bị sâu bệnh phá hoại, ít bị đổ ngã khi thu hoạch. Giảm lượng thuốc BVTV cũng như số lần phun thuốc 50%. Giảm lượng phân bón hoá học: Phân đạm giảm 19% (còn 193kg Urea/ha – giảm 47 kg Urea/ha), Phân Lân giảm 9,5% (còn 112kg Super Lân/ha – giảm 38 kg super Lân/ha), Phân Kali giảm 10% (còn 133kg CloruaKali/ha – giảm 12 kg Clorua Kali/ha)
Năng suất lúa tăng 11%, bình quân 0,55 tạ/ha (chủ yếu giảm thất thoát trong và sau thu hoạch sản phẩm)
Giá lúa trong mô hình bán được cao hơn từ 350 - 500 đồng/kg. Với giá lúa bán 5.800 đồng/kg, sau khi trừ chi phí, mỗi hectare nông hộ thu về lợi nhuận tăng thêm bình quân 48% (4,2 triệu đồng/ha/vụ). Hiệu quả kinh tế cao này có sự góp phần của việc: giảm chi phí đầu tư cho sản xuất, tăng năng suất (giảm thất thoát sau thu hoạch) chất lượng sản phẩm tăng, phẩm cấp sản phẩm đồng đều (giá bán sản phẩm cạnh tranh, doanh thu đạt bình quân gần 40 triệu đồng/ha/vụ), phụ phẩm (rơm) dùng chủ yếu cho chăn nuôi gia súc nhai lại.
Môi trường sinh thái trên cánh đồng lớn sản xuất lúa thâm canh cải thiện tích cực (giảm thiểu ô nhiễm môi trường do thuốc BVTV, phân hoá học, bảo vệ thiên địch có lợi). Mối liên hệ cộng đồng nông hộ thắt chặt hơn trong quá trình sản xuất (thực hiện cùng qui trình sản xuất lúa nên có sự trao đổi, học hỏi lẫn nhau tốt hơn), chuyên môn hoá sâu tạo được vùng sản xuất hàng hoá rộng với khối lượng sản phẩm lớn và phẩm chất tốt hơn, giá bán sản phẩm có ưu thế cạnh tranh. Vì vậy, mối liên kết với doanh nghiệp (HTX Công Thành, Lò sấy lúa Thái Bình …) tiêu thụ sản phẩm với giá thu mua cạnh tranh, xây dựng được vùng lúa hàng hoá có chất lượng, chủ động ký kết hợp đồng bao tiêu sản phẩm doanh nghiệp cung ứng vật tư sản xuất, máy móc chất lượng bảo đảm với giá cả thấp hơn cho nông hộ. Thâm canh lúa theo phương pháp canh tác SRI sẽ tiết kiệm một lượng nước tưới rất nhiều, điều này có một ý nghĩa to lớn trong điều kiện biến đổi khí hậu khô hạn hiện nay. Nông hộ tập làm quen dần với việc ghi chép sổ nhật ký sản xuất trên đồng ruộng. Đây là bước đầu thực hiện truy nguyên nguồn gốc sản phẩm khi đi vào chuyên môn hoá sâu sau này.
Theo KS. Nguyễn Văn Hiến, Trung tâm Khuyến nông trao đổi: dùng máy cấy, cây mạ được cấy nông sẽ mau bén rễ phục hồi và rễ nhanh lan toả trên mặt ruộng để hút được dinh dưỡng, cấy thưa: cây lúa sẽ tận dụng được hiệu ứng hàng rìa trong canh tác, giữ được đặc tính sinh học của giống trong sản phẩm do hạn chế dùng thuốc BVTV thâm canh lúa theo phương pháp canh tác SRI và tăng lượng phân bón hữu cơ giúp cây mọc khoẻ, thân cứng, lá đứng, nhận nhiều ánh sáng, quá trình quang hợp diễn ra mạnh, cây lúa ít ngã đổ, ít sâu bệnh phá hoại, tiết kiệm nước tưới , năng suất lao động nâng lên nhờ áp dụng cơ giới….
Cùng với việc qui hoạch vùng sản xuất lúa thương phẩm chất lượng cao của cơ quan chức trách và áp dụng đồng bộ các giải pháp kỹ thuật canh tác, cơ giới hoá các doanh nghiệp cung ứng vật tư, máy nông nghiệp, doanh nghiệp thu mua nông sản song hành cùng với nỗ lực của nông hộ sản xuất sẽ biến cánh đồng manh mún, cằn cỗi trước đây thành cánh đồng lớn thâm canh áp dụng cơ giới để sản xuất hàng hoá lúa gạo chất lượng cao theo hướng chuyên môn hoá là hiện thực không xa. Đây là tín hiệu vui cho nông hộ sản xuất lúa ở quê nhà và điều kiện dân sinh kinh tế được cải thiện làm cho diện mạo nông thôn mới miền núi Tánh Linh tươi sáng bội phần.
Khánh Vương